Tình hình chăn nuôi cả nước tháng 11/2021

TÌNH HÌNH CHUNG

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất chăn nuôi cả nước trong tháng 11 diễn ra trong điều kiện dịch bệnh Covid 19 còn diễn biến phức tạp; chăn nuôi lợn tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn do giá thịt lợn hơi trong tháng 11 vẫn ở mức thấp, dịch tả lợn châu Phi có diễn biến phức tạp tại một số địa phuong. Chăn nuôi lợn tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn khi giá thịt lợn hơi trong tháng 11 vẫn ở mức thấp, dịch tả lợn châu Phi có diễn biến phức tạp tại một số địa phương. Theo số liệu của TCTK, tổng đàn lợn của cả nước tại thời điểm cuối tháng 11 tăng khoảng 0,6% so với cùng thời điểm năm 2020. Chăn nuôi gia cầm cũng gặp khó khăn khi chi phí sản xuất tăng, nhu cầu thị trường giảm, lượng vật nuôi tồn trong chuồng cao. Theo ước tính của TCTK, tổng đàn gia cầm của cả nước tại thời điểm cuối tháng 11 tăng khoảng 1,7% so với cùng thời điểm năm 2020.

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2021 ước đạt 34 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2021 ước đạt 393 triệu USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 100 triệu USD, tăng 12,4%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 94 triệu USD, tăng 8,8%.

Chăn nuôi trâu, bò: Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11/2021 giảm 3,5%, tổng số bò tăng 1,2% so với cùng thời điểm năm 2020.

Chăn nuôi lợn: Tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn khi giá thịt lợn hơi trong tháng vẫn ở mức thấp và các chi phí đầu vào đặc biệt là thức ăn chăn nuôi liên tục tăng khiến phần lớn các cơ sở chăn nuôi đều đang chịu thu lỗ. Với bối cảnh như hiện tại, nhiều cơ sở chăn nuôi đã phải dừng nuôi, để trống chuồng do không còn đủ nguồn lực hoặc không dám nuôi tiếp. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11/2021 tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm 2020.

Chăn nuôi gia cầm: Chăn nuôi gia cầm cũng đối mặt với nhiều khó khăn. Chi phí sản xuất tăng, nhu cầu thị trường giảm, lượng vật nuôi tồn đọng trong chuồng cao, tình trạng thua lỗ kéo dài, nhiều cơ sở chăn nuôi cũng giảm đàn hoặc tạm ngừng nuôi. Theo ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 11/2021 tăng 1,7% so với cùng thời điểm năm 2020.

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm

Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 20/11/2021 tình hình dịch bệnh trên cả nước cụ thể như sau:

– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 11/2021, phát sinh 01 ổ dịch CGC A/H5N8 tại xã Quảng Minh, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 5.200 con. Hiện nay, cả nước có 02 ổ CGC A/H5N8 tại 02 tỉnh Ninh Bình và Quảng Ninh chưa qua 21 ngày. Số gia cầm bị tiêu hủy là 7.510 con.

Dịch lợn tai xanh: Trong tháng 11/2021, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh tại các địa phương. Hiện nay, cả nước không có dịch Tai xanh.

Dịch Lở mồm long móng: Trong tháng 11/2021, không phát sinh ổ dịch LMLM mới tại các địa phương. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM.

Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 11/2021, cả nước phát sinh 266 xã có dịch tại 110 huyện thuộc 34 tỉnh. Tổng lợn bị tiêu hủy là 17.483 con. Hiện nay, cả nước có 895 ổ dịch tại 227 huyện của 43 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; tổng số lợn tiêu hủy là 132.826 con.

Dịch Viêm da nổi cục: Trong tháng 11/2021, cả nước phát sinh 09 xã có dịch tại 06 huyện thuộc 03 tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh, Tiền Giang. Tổng số trâu, bò mắc bệnh là 30 con, số trâu, bò tiêu hủy là 03 con. Hiện nay, cả nước có 188 ổ dịch tại 50 huyện của 12 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; tổng số trâu, bò mắc bệnh là 21.231 con, số trâu, bò đã tiêu hủy là 2.935 con.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI

Tại thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 12/2021 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 0,975 UScent/lb xuống mức 75,1 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do nhu cầu ở mức thấp.

Tại thị trường trong nước, trong tháng 11/2021, giá lợn hơi biến động giảm do dịch Covid-19 vẫn chưa được kiểm soát hết, nhiều công ty, trường học chưa hoạt động lại nên nhu cầu vẫn thấp. Theo đó, giá heo hơi tại miền Bắc giảm 3.000 – 7.000 đồng/kg, hiện trong khoảng 40.000 – 45.000 đồng/kg. Ba tỉnh gồm Bắc Giang, Yên Bái và Thái Nguyên lần lượt thu mua với giá 41.000 đồng/kg, 43.000 đồng/kg và 44.000 đồng/kg. Mốc giá cao nhất khu vực hiện là 45.000 đồng/kg, ghi nhận được ở các tỉnh Hưng Yên, Ninh Bình và Hà Nam. Trong khi đó, Tuyên Quang tiếp tục là địa phương có mức giá thấp nhất khi giao dịch tại mốc 40.000 đồng/kg.

Tại khu vực miền Trung, Tây Nguyên, giá heo hơi điều chỉnh giảm từ 1.000 đồng/kg đến 2.000 đồng/kg. Cụ thể, Khánh Hòa và Thanh Hóa cùng giảm 1.000 đồng/kg xuống còn 44.000 đồng/kg, ngang bằng với Nghệ An, Quảng Bình và Ninh Thuận. Sau khi giảm 2.000 đồng/kg, thương lái tỉnh Thừa Thiên Huế hiện đang thu mua heo hơi với giá 43.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực. Các địa phương còn lại thu mua heo hơi trong khoảng 44.000 – 46.000 đồng/kg. Giá heo hơi hôm nay tại miền Trung, Tây Nguyên dao động trong khoảng 43.000 – 46.000 đồng/kg.

Giá lợn hơi tại miền Nam dao động trong khoảng 40.000 – 46.000 đồng/kg, giảm 4.000 – 5.000 đồng/kg. Bến Tre giảm mạnh 5.000 đồng/kg, đưa giá heo hơi về mốc thấp nhất khu vực là 40.000 đồng/kg. Cùng đà giảm còn có Cần Thơ khi tỉnh này hạ xuống còn 43.000 đồng/kg. Bình Dương hiện đang thu mua heo hơi ở mức 45.000 đồng/kg, cùng giá với Bình Phước, Tây Ninh, Vũng Tàu và Cà Mau. Trong khi đó, Đồng Nai, TP HCM, Bạc Liêu và Sóc Trăng hiện đang là các tỉnh dẫn đầu về giá với mức giao dịch đạt 46.000 đồng/kg.

Giá thu mua gà bán tại trại biến động tăng tại các vùng miền trong tháng qua do nhu cầu khởi sắc. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 2.000 – 3.000 đồng/kg lên mức 42.000 – 43.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Trung và miền Nam tăng 4.000 đồng/kg lên 26.000 – 27.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc, miền Trung và miền Nam ổn định ở mức 1.300 – 1.700 đồng/quả.

Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam

Xem chi tiết tại: http://channuoivietnam.com/bieu-2/

Tình hình xuất khẩu:

Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2021 ước đạt 34 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2021 ước đạt 393 triệu USD, tăng 4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa ước đạt 100 triệu USD, tăng 12,4%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 94 triệu USD, tăng 8,8%.

Xuất khẩu TACN và nguyên liệu:

Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 11/2021 xuất khẩu thức ăn gia súc các loại của Việt Nam tăng mạnh 44,4 % so với tháng 10/2021 và tăng 61% so với cùng tháng năm 2020, đạt trên 114,01 triệu USD.

Cộng chung cả 11 tháng năm 2021 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này tăng mạnh 34,4% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 971,83 triệu USD.

Việt Nam xuất khẩu thức ăn gia súc nhiều nhất sang thị trường Trung Quốc đạt 330,73 triệu USD, chiếm 34% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc của cả nước, tăng 75,6% so với cùng kỳ năm 2020. Riêng tháng 11/2021 kim ngạch tăng 29,5% so với tháng 10/2021 và tăng 78% so với tháng 11/2020, đạt 33,72 triệu USD.

Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Campuchia chiếm 14,1%, đứng thứ 2 về kim ngạch, đạt 137,41 triệu USD, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm trước; Riêng tháng 11/2021 giảm 18,3% so với tháng 10/2021 và giảm 23,8% so với tháng 11/2020, đạt 9,62 triệu USD.

Đứng thứ 3 là thị trường Ấn Độ đạt 95,86 triệu USD, chiếm 9,9%, tăng mạnh 36% so với cùng kỳ; Riêng tháng 11/2021 xuất khẩu sang thị trường này tăng 12,4% so với tháng 10/2021 nhưng giảm 29,5% so với tháng 11/2020, đạt 3,34 triệu USD.

Nhìn chung, trong 11 tháng năm nay, xuất khẩu thức ăn gia súc sang đa số thị trường tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2020, đáng chú ý xuất khẩu sang Philippines tăng mạnh 165,3%, đạt 69,13 triệu USD; xuất khẩu sang Thái Lan cũng tăng mạnh 78,2%, đạt 28,65 triệu USD.

Xuất khẩu thức ăn gia súc 11 tháng năm 2021

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/12/2021). ĐVT: USD

Tình hình nhập khẩu:

– Đậu tương:

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 11/2021 sụt giảm cả về lượng, kim ngạch và giá so với tháng 10/2021, với mức giảm tương ứng 27,9%, 30,5% và 3,6%, đạt 115.947 tấn, tương đương 71,49 triệu USD, giá trung bình 616,5 USD/tấn; so với tháng 11/2020 thì giảm 10,2% về lượng, nhưng tăng 21% về kim ngạch và tăng 34,9% về giá.Tinh chung cả 11 tháng năm 2021 nhập khẩu đậu tương tăng cả về khối lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2020, với mức tăng tương ứng 3,8%, 49% và 43,7%, đạt trên 1,81 triệu tấn, trị giá trên 1,06 tỷ USD, giá trung bình 584,4 USD/tấn.Mỹ và Brazil là 2 thị trường chủ đạo cung cáp đậu tương cho Việt Nam; trong đó, nhập khẩu từ thị trường Brazil trong tháng 11/2021 sụt giảm mạnh 51% về lượng và giảm 53,3% về kim ngạch, giá giảm 4,7% so với tháng 10/2021, đạt 64.695 tấn, tương đương 39,2 triệu USD, giá 606 USD/tấn.

Tính chung, 11 tháng năm 2021 nhập khẩu từ thị trường này tăng 21,9% về lượng, tăng 85,5% kim ngạch và giá tăng 52,2%, đạt 899.083 tấn, tương đương 532,04 triệu USD, giá 591,8 USD/tấn, chiếm trên 49,6% trong tổng lượng và chiếm 50,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước.Nhập khẩu từ thị trường Mỹ trong tháng 11/2021 tăng mạnh trở lại, tăng 81,7% về lượng và tăng 75,8% về kim ngạch nhưng giảm 3,3% về giá so với tháng 10/2021, đạt28.214 tấn, tương đương 17,42 triệu USD, giá 617,5 USD/tấn. Tính chung cả 11 tháng đạt 792.446 tấn, tương đương 451,18 triệu USD, giá 569,4 USD/tấn, chiếm trên 43% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm 3% về lượng, nhưng tăng 33% kim ngạch và tăng 37% về giá so với cùng kỳ năm trước.

Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2021

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/12/2021 của TCHQ)

Nhập khẩu đậu tương 11 tháng năm 2021 đạt trên 1,06 tỷ USD

Lúa mì:

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu lúa mì các loại về Việt Nam trong tháng 11/2021 đạt 348.645 tấn, tương đương 115,53 triệu USD, giá trung bình 331,4 USD/tấn, giảm 6,5% về lượng, nhưng tăng 1,7% kim ngạch và tăng 8,8% về giá so với tháng 10/2021; nhưng so với tháng 11/2020 thì tăng rất mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức tăng tương ứng 241,8%, 364,9% và 36%.

Tính chung trong 11 tháng năm 2021 cả nước nhập khẩu 4,44 triệu tấn lúa mì, trị giá trên 1,3 tỷ USD, giá trung bình 293 USD/tấn, tăng mạnh 69,6% về khối lượng, tăng 94% kim ngạch và tăng 14,4% về giá so với cùng kỳ năm 2020.

Lúa mì nhập khẩu về Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ thị trường Australia, chiếm gần 70% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, với 3,05 triệu tấn, tương đương 904,63 triệu USD, giá 296,4 USD/tấn, tăng rất mạnh 426,8% về khối lượng, tăng 460,4% kim ngạch và giá tăng 6,4%; riêng tháng 11/2021 lượng nhập khẩu tăng 31,5 % về lượng và tăng 43% về kim ngạch và tăng 8,8% về giá so với tháng 10/2021, đạt 201.947 tấn, tương đương 71,86 triệu USD, giá 355,8 USD/tấn; so với tháng 11/2020 thì tăng rất mạnh 1.253% về lượng, tăng 1,680% về kim ngạch và giá tăng 31,6%.

Ngoài thị trường chủ đạo Australia, thì Việt Nam còn nhập khẩu lúa mì từ: Ukraine 278.564 tấn, tương đương 80,89 triệu USD, tăng 15,9% về khối lượng, tăng 45,9% kim ngạch so với cùng kỳ; nhập khẩu từ Mỹ 197.052 tấn, tương đương 62,47 triệu USD, giảm 63,7% cả về khối lượng và giảm 57,5% kim ngạch;, Brazil 229.518 tấn, tương đương 55 triệu USD, giảm trên 5% cả về khối lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2020.

Nhập khẩu lúa mì 11 tháng năm 2021

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/12/2021 của TCHQ)

Nhập khẩu lúa mì 11 tháng năm 2021 tăng mạnh

– Ngô:

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại của cả nước trong tháng 11/2021 đạt 1,04 triệu tấn, tương đương 317,55 triệu USD, giá trung bình 306,6 USD/tấn, tăng 26,3% về lượng, tăng 35,3% kim ngạch và tăng 7,1% về giá so với tháng 10/2021; so với tháng 11/2020 thì giảm 7,4% về lượng, nhưng tăng mạnh 51,4% về kim ngạch và tăng 63,4% về giá.Tính chung 11 tháng năm 2021 cả nước nhập khẩu 9,52 triệu tấn ngô, trị giá 2,72 tỷ USD, giá trung bình 285,6 USD/tấn, giảm 14% về khối lượng, nhưng tăng 23,8% kim ngạch và tăng 44,2% về giá so với cùng kỳ năm 2020.Việt Nam nhập khẩu ngô phần lớn từ thị trường Achentina, chiếm 59,3% trong tổng lượng và chiếm 62,2% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 5,64 triệu tấn, tương đương 1,69 tỷ USD, giá 299,5 USD/tấn; trong đó riêng tháng 11/2021 lượng nhập khẩu đạt 907.347 tấn, tương đương 275,09 triệu USD, giá 303,2 USD/tấn, tăng 22% về lượng và tăng 30,3% về kim ngạch và giá tăng 6,7% so với tháng 10/2021; so với tháng 11/2020 thì tăng rất mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức tăng tương ứng 64,4%, 170,7% và 64,6%.

Đứng sau thị trường chủ đạo Achentina là thị trường Brazil đạt 1,54 triệu tấn, tương đương 352,39 triệu USD, giá 228,8 USD/tấn, giảm 37,7% về lượng, giảm 25,5% kim ngạch nhưng giá tăng 19,6%,Đáng chú ý nhập khẩu ngô từ thị trường Ấn Độ 11 tháng tăng đột biến 43.680% về lượng và tăng 38.577% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2020, đạt 1,1 triệu tấn, tương đương 308,37 triệu USD, giá 281 USD/tấn.

Nhập khẩu ngô 11 tháng năm 2021                 

(Tính toán theo số liệu công bố ngày 13/12/2021 của TCHQ) 

Kim ngạch nhập khẩu ngô 11 tháng năm 2021 tăng cao

– Sản phẩm chăn nuôi:

Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 11 năm 2021 đạt 236 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản pẩm chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2021 đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 1,1 tỷ USD, tăng 12,5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 1,3 tỷ USD, tăng 15,7%.

– Thức ăn gia súc và nguyên liệu:

Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 11 năm 2021 đạt 420 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 11 tháng đầu năm 2021 đạt 4,6 tỷ USD, tăng 31,4% so với cùng kỳ năm 2020.

Trong 10 tháng đầu năm 2021, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Áchentina (chiếm 35% thị phần), Hoa Kỳ (16,7%) và Braxin (11,8%). So với cùng kỳ năm 2020, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ 3 thị trường này đều tăng, mức tăng lần lượt là: 11,3%, 66,3% và 42,2%.

Nguồn tin: http://channuoivietnam.com

Channuoivietnam.com © 2013 được phát triển bởi Viện Công Nghệ Sáng Tạo - Email: dohuuphuong2010@gmail.com - ĐT: 0908.255.265 Trang chủ