TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 3/2023, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định. Ba tháng đầu năm, dù dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát tốt nhưng chăn nuôi lợn gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tăng cao. Chăn nuôigia cầm trên cả nước phát triển ổn định.
Giá trị sản xuất quý I tăng khoảng 4,69%, chiếm 35,2% tỷ trọng GTSX của lĩnh vực nông nghiệp chung;với sản lượng thịt hơi các loại chính đạt trên 1,9triệu tấn, tăng 6,0% so CKNT. Cụ thể: Đàn trâu ước giảm khoảng 2,4%, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 32,8 nghìn tấn, giảm 2,4%; Đàn bò ước tăng khoảng 1,9%; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 130,5nghìn tấn, tăng 2,8%; sữa bò tươi đạt 323,5 nghìn tấn, tăng 8,6%; Đàn lợn ước tăng 6,2%, sản lượng thịt lợn hơi ước đạt 1.192,0 nghìn tấn, tăng 7,5%; Đàn gia cầm ước tăng 2,4%; sản lượng thịt ước đạt 563,2 nghìn tấn, tăng 4,2%; trứng ước đạt 4,7 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Tình hình chăn nuôi lợn trong Quý I gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển khá, dịch bệnh được kiểm soát. Trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 3 năm 2023 ước đạt 47,4 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 114,9 triệu USD, tăng 46,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 33,3 triệu USD, tăng 22,2%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 37 triệu USD, tăng 80,1%.
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2023 ước đạt 326 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 740,7 triệu USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 354,6 triệu USD, tăng 5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 302,3 triệu USD, tăng 0,5%.
Trong 3 tháng và 3 tháng đầu năm 2023, tình hình chăn nuôi lợn cả nước gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi tăng cao và kéo dài trong bối cảnh nguồn cung thịt lợn được hồi phục sau dịch tả lợn châu Phi. Chăn nuôi gia cầm trên cả nước phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát, chỉ phát sinh một số ổ dịch nhỏ lẻ. Cụ thể:
Chăn nuôi trâu, bò:
Trong quý I năm 2023 diễn ra ổn định. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 2,23 triệu con, giảm 2,4%, tổng số bò là 6,41 triệu con, tăng 1,9% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng quý I ước đạt 32,8 nghìn tấn, giảm 2,4%; sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng quý I ước đạt 130,5 nghìn tấn, tăng 2,8%; sản lượng sữa bò tươi quý I ước đạt 323,5 nghìn tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi lợn:
Trong quý I, tình hình chăn nuôi lợn trên cả nước đang gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp, chưa có đấu hiệu khởi sắc, xu hướng giảm giá này đã kéo dài từ giữa năm 2022 đến nay. Người chăn nuôi lợn hiện nay gặp nhiều khó khăn khi giá bán thấp hơn chi phí sản xuất. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 24,66 triệu con, tăng 6,2% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng quý I ước đạt 1192,0 nghìn tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm:
Đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong quý. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Ba năm 2023 là 532,4 triệu con, tăng 2,4% so với cùng thời điểm năm 2022; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng quý I ước đạt 563,2 nghìn tấn, tăng 4,2%; sản lượng trứng gia cầm quý I ước đạt 4,7 tỷ quả, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022.
Thú y
Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến ngày 24/3/2023 tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm như sau:
– Dịch cúm gia cầm: Trong tháng 3/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch CGC. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 04 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 04 tỉnh: Nghệ An, Cao Bằng, Quảng Ninh và Ninh Bình. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 55,55%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 78,47%. Hiện nay, cả nước không có ổ dịch CGC.
– Dịch lợn tai xanh: Trong tháng 3/2023, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước không phát sinh ổ dịch Tai xanh. Hiện nay, cả nước không có báo cáo ổ dịch Tai xanh.
– Dịch Lở mồm long móng: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 03 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Sơn La và Cao Bằng. Số gia súc mắc bệnh là 249 con, số gia súc tiêu hủy là 01 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 13 ổ dịch tại 05 tỉnh: Cao Bằng, Sơn La, Quảng Ngãi, Lạng Sơn và Phú Yên. Hiện nay, cả nước có 06 ổ dịch LMLM tại 02 tỉnh Cao Bằng và Sơn La chưa qua 21 ngày.
– Dịch tả lợn châu Phi: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 08 ổ dịch tại 07 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 192 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 73 ổ dịch tại 25 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 2.988 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 86,92%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 88,25%. Hiện nay, cả nước có 15 xã tại 11 tỉnh Ninh Bình, Cao Bằng, Thái Nguyên, Điện Biên, Sơn La, Quảng Bình, Khánh Hòa, Đăk Lăk, Bình Phước, Đồng Tháp, Kiên Giang có ổ dịch TLCP chưa qua 21 ngày
– Dịch Viêm da nổi cục: Trong tháng 3, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Quảng Ngãi. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 18 ổ dịch tại 05 tỉnh: Quảng Ngãi, Long An, Khánh Hòa, Tiền Giang và Bến Tre. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 88,88%; số lợn bị phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 96,91%. Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch VDNC tại 02 tỉnh Quảng Ngãi và Long An chưa qua 21 ngày.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI
Trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 4/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 8,125 UScent/lb xuống mức 77,05 UScent/lb.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 3/2023, giá lợn hơi trên cả nước giảm do do nguồn cung dồi dào trong khi mức tiêu thụ chậm. Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi điều chỉnh giảm 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 48.000 – 50.000 đồng/kg. Cụ thể, giá lợn hơi thấp nhất khu vực là 48.000 đồng/kg, được ghi nhận tại các tỉnh gồm Yên Bái, Lào Cai, Nam Định, Hà Nam và Ninh Bình. Giá lợn hơi tại các tỉnh Bắc Giang và Vĩnh Phúc hiện là 49.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại thu mua lợn hơi ở ngưỡng 50.000 đồng/kg, cao nhất khu vực.
Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên giảm 1.000 – 3.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 47.000 – 50.000 đồng/kg. Theo đó, lợn hơi tại tỉnh Hà Tĩnh đang được giao dịch với giá thấp nhất khu vực là 47.000 đồng/kg. Trong khi đó, 50.000 đồng/kg là giá thu mua lợn hơi cao nhất được ghi nhận tại Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Khánh Hòa và Bình Thuận. Các tỉnh còn lại giá lợn hơi 48.000 – 49.000 đồng/kg.
Tại miền Nam, giá lợn hơi giảm 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 50.000 – 53.000 đồng/kg. Trong đó, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bến Tre đang cùng thu mua lợn hơi ở chung mốc 50.000 đồng/kg. Lợn hơi tại An Giang và Vũng Tàu đang được giao dịch lần lượt với giá 51.000 đồng/kg và 52.000 đồng/kg. Giá lợn hơi tại Cà Mau là 53.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động giảm tại các vùng miền trong tháng 3/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam giảm 1.000 đồng/kg xuống mức 33.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung giảm 4.000 đồng/kg xuống mức 20.000 – 21.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc giảm 4.000 đồng/kg xuống còn 29.000 đồng/kg. Giá gà giảm do sức mua giảm, tiêu thụ thịt gà ở các khu công nghiệp, bếp ăn tập thể giảm.
Giá trứng gà miền Bắc giảm 100 đồng/quả xuống mức 1.800 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 100 đồng/quả lên mức 2.000 – 2.200 đồng/quả. Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ tăng 200 đồng/quả lên mức 2.200 – 2.300 đồng/quả. Giá trứng gà miền Tây Nam Bộ tăng 100 đồng/quả lên mức 2.000 – 2.100 đồng/quả.
Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam
Xem chi tiết tại: http://channuoivietnam.com/bieu-2/
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
– Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 3 năm 2023 ước đạt 47,4 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 114,9 triệu USD, tăng 46,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 33,3 triệu USD, tăng 22,2%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 37 triệu USD, tăng 80,1%.
– Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc của cả nước trong quý I/2023 đạt 229,47 triệu USD, giảm 15,8% so với quý I/2022.
Riêng tháng 3/2023 đạt 103,75 triệu USD, tăng mạnh 30,8% so với tháng 2/2023 nhưng giảm 6,5% so với tháng 3/2022.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Trung Quốc – thị ttường lớn nhất, tháng 3/2023 tăng mạnh 37,9% so với tháng 2/2023 nhưng giảm 10,4% so với tháng 3/2022, đạt 50,57 triệu USD, tính chung kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này quý I/2023 đạt 99,7 triệu USD, giảm 20,4% so với quý I/2022, chiếm 43,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Campuchia – thị trường lớn thứ 2 trong quý I/2023 tăng 29,5% so với cùng kỳ, đạt 41,28 triệu USD, chiếm 18% trong tổng kim ngạch; riêng tháng 3/2023 tăng 17% so với tháng 2/2023 và tăng mạnh 39% so với tháng 3/2022, đạt 16,57 triệu USD.
Thị trường Malaysia xếp thứ 3 về kim ngạch, đạt 22,93 triệu USD, tăng mạnh 46% so với cùng kỳ; riêng trong tháng 3/2023 giảm 11,6% so với tháng 2/2023 nhưng tăng 16,4% so với tháng 3/2022, đạt 7,44 triệu USD.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường FTA-RCEP trong quý I/2023 giảm 8,6% so với cùng kỳ, đạt 193,51 triệu USD, chiếm 84,3% trong tổng kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường CPTTP tăng 29% so với cùng kỳ, đạt 29,48 triệu USD, chiếm 12,9% trong tổng kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á tăng 8,4% so với cùng kỳ, đạt 80,89 triệu USD, chiếm 35,3%.
Xuất khẩu thức ăn gia súc quý I/2023
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 14/4/2023 của TCHQ). ĐVT: USD

THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
– Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 3 năm 2023 ước đạt 326 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 3 tháng đầu năm 2023 đạt 740,7 triệu USD, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 354,6 triệu USD, tăng 5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 302,3 triệu USD, tăng 0,5%.
- Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu về Việt Nam tháng 3/2023 tăng 12,9% so với tháng 2/2023 và tăng 0,6% so với tháng 3/2022, đạt 415,3 triệu USD. Tính chung trong quý I/2023 nhập khẩu nhóm hàng này đạt gần 1,16 tỷ USD, tăng 11,5% so với quý I/2022.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu nhiều nhất từ thị trường Achentina, chiếm 30,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt trên 358,05 triệu USD, tăng mạnh 35,5% so với quý I/2022; trong đó riêng tháng 3/2023 đạt 73,39 triệu USD, giảm mạnh 47,6% so với tháng 2/2023 và giảm 22,5% so với tháng 3/2022.
Đứng thứ 2 là thị trường Ấn Độ chiếm tỷ trọng 16,8%, đạt trên 195,28 triệu USD, tăng 220% so với cùng kỳ năm 2022; riêng tháng 3/2023 nhập khẩu từ thị trường này đạt trên 112 triệu USD, tăng 285,4% so với tháng 2/2023 và tăng mạnh 326% so với tháng 3/2022.
Tiếp đến thị trường Mỹ trong tháng 3/2023 nhập khẩu giảm mạnh 30,8% so với tháng 2/2023 và giảm 26,9% so với tháng 3/2022, đạt gần 45,46 triệu USD; cộng chung cả 3 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu từ thị trường này tăng 16,7% so với quý I/2022; đạt 170,8 triệu USD, chiếm 14,7% trong tổng kim ngạch.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu từ thị trường Đông Nam Á trong quý I/2023 giảm 13,2% so với quý I/2022, đạt 79,19 triệu USD.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu quý I/2023
(Theo số liệu công bố ngày 14/4 /2023 của TCHQ). ĐVT: USD


- Đậu tương:
Quý I/2023 cả nước nhập khẩu 498.647 tấn đậu tương, trị giá gần 346,58 triệu USD, giá trung bình 695 USD/tấn.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 3/2023 đạt 196.771 tấn, tương đương133,25 triệu USD, giá trung bình 677,2 USD/tấn, giảm 15,6% về lượng và giảm 20,3% kim ngạch so với tháng 2/2023, giá giảm5,6%; so với tháng 3/2022 tăng 29,3% về lượng, tăng 27,4% về kim ngạch nhưng giảm 1,5% về giá.
Tính chung quý I/2023 cả nước nhập khẩu 498.647 tấn đậu tương, trị giá gần 346,58 triệu USD, giá trung bình 695 USD/tấn, giảm 4,9% về lượng, nhưng tăng 3,7% kim ngạch và tăng 9% về giá so với quý I/2022.
Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam từ thị trường Mỹ nhiều nhất, trong tháng 3/2023 giảm 22,7% về lượng và giảm 27,9% về kim ngạch so với tháng 2/2023, giá giảm 6,7%, đạt 119.120 tấn, tương đương 80,81 triệu USD, giá 678,4 USD/tấn; Tính chung, quý I/2023 nhập khẩu đậu tương từ thị trường này đạt 329.874 tấn, tương đương 230,43 triệu USD, chiếm trên 66% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, tăng mạnh 59,3% về lượng, tăng 77,4% về kim ngạch, giá tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Brazil – thị trường lớn thứ 2 trong quý I/2023 đạt 135.084 tấn, tương đương 91,57 triệu USD, giá 677,9 USD/tấn, chiếm trên 27% trong tổng lượng và chiếm 26,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm mạnh 51,8% về lượng, giảm 49% về kim ngạch nhưng giá tăng 5,8% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada quý I/2023 đạt 27.122 tấn, tương đương 19,99 triệu USD, giá 736,9 USD/tấn, giảm 15,3% về lượng, giảm 5,6% về kim ngạch nhưng giá tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 270 tấn, tương đương 211.300 USD, giá 782,6 USD/tấn, giảm 94% cả về lượng và kim ngạch nhưng tăng 7% về giá.
Nhập khẩu đậu tương quý I/2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/4/2023 của TCHQ)

- Lúa mì:
Quý I/2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt 1,21 triệu tấn, tương đương trên 444,71 triệu USD, tăng 14,8% về khối lượng, tăng 15,8% về kim ngạch so với quý I/2022.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 3/2023 cả nước nhập khẩu 593.229 tấn lúa mì, tương đương 215,37 triệu USD, giá trung bình 363 USD/tấn, tăng mạnh 54,5% về lượng, tăng 50,8% kim ngạch nhưng giảm 2,4% về giá so với tháng 2/2023. So với tháng 3/2022 cũng tăng 23,4% về lượng, tăng 22,3% kim ngạch nhưng giảm 0,9% về giá.
Tính chung trong quý I/2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt 1,21 tấn, tương đương trên 444,71 triệu USD, tăng 14,8% về khối lượng, tăng 15,8% về kim ngạch so với quý I/2022, giá trung bình đạt 366,4 USD/tấn, tăng 0,9%.
Trong tháng 3/2023 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Australia tăng mạnh 112,9% về lượng và tăng 109% kim ngạch, nhưng giảm 1,8% về giá so với tháng 2/2023, đạt 477.225 tấn, tương đương 168,92 triệu USD, giá 354 USD/tấn; so với tháng 3/2022 cũng tăng 30,4% về lượng, tăng 24,5% kim ngạch nhưng giảm nhẹ 4,5% về giá. Tính chung cả quý I/2023, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Australia, chiếm gần 68% trong tổng lượng và chiếm 65,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt 814.288 tấn, tương đương 290,82 triệu USD, giá trung bình 357,2 USD/tấn, tăng 16,8% về lượng, tăng 14,2% về kim ngạch nhưng giảm 2,2% về giá so với quý I/2022.
Bên cạnh thị trường chủ đạo Australia là thị trường Brazil chiếm gần 22% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 261.611 tấn, tương đương 95,82 triệu USD, giá trung bình 366,3 USD/tấn, tăng mạnh cả về lượng, kim ngạch giá so với quý I/2022, với mức tăng tương ứng 36,2%, 47,3% và 8,2%.
Tiếp đến thị trường Mỹ đạt 72.319 tấn, tương đương 31,41 triệu USD, giá 434,3 USD/tấn, giảm 6,8% về lượng, giảm 9,9% kim ngạch và giảm 3,4% về giá so với quý I/2022, chiếm 6% trong tổng lượng và chiếm 7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước.Nhập khẩu lúa mì từ thị trường Canada đạt 42.615 tấn, tương đương 18,25 triệu USD, tăng mạnh 878% về khối lượng và tăng 797% về kim ngạch so với quý I/2022.
Nhập khẩu lúa mì quý I/2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/4/2023 của TCHQ)

– Ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô trong quý I/2023 đạt gần 2,19 triệu tấn, trị giá trên 738,5 triệu USD, giá trung bình 337,6 USD/tấn, tăng 4,8% về lượng, tăng 9% kim ngạch và tăng 4% về giá so với quý I/2022.
Trong đó, riêng tháng 3/2023 đạt 767.359 tấn, tương đương 260,65 triệu USD, giá trung bình 339,7 USD/tấn, tăng trên 20% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 2/2023, giá cũng tăng 0,6%; so với tháng 3/2022 thì tăng mạnh 48,8% về lượng, tăng 50,4% về kim ngạch và tăng 1,1% về giá.
Brazil là thị trường chủ đạo cung cấp ngô cho Việt Nam trong quý I/2023, chiếm trên 55,5% trong tổng lượng và chiếm 54,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 1,21 triệu tấn, tương đương gần 404,69 triệu USD, giá 333,5 USD/tấn, tăng mạnh 292,6% về lượng, tăng 308,5% kim ngạch và tăng 4% về giá so với quý I/2022; riêng tháng 3/2023 đạt 393.397 tấn, tương đương 131,87 triệu USD, giá 335,2 USD/tấn, tăng gần 5% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 2/2023, giá tăng nhẹ 0,1%; so với tháng 3/2022 thì tăng mạnh 467,3% về lượng, tăng 458,8% về kim ngạch, nhưng giá giảm 1,5%.
Thị trường lớn thứ 2 là Ấn Độ, trong quý I/2023 đạt 422.841 tấn, tương đương 140,54 triệu USD, giá 332,4 USD/tấn, chiếm trên 19% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm 16,4% về lượng, giảm 9,8% về kim ngạch nhưng giá tăng nhẹ 7,8% so với quý I/2022.
Tiếp đến thị trường Achentina quý I/2023 đạt 405.962 tấn, tương đương 135,85 triệu USD, giá 334,7 USD/tấn, chiếm trên 18% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm mạnh 58% về lượng, giảm 57,4% về kim ngạch nhưng giá tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô quý I/2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 14/4/2023 của TCHQ)

Nguồn tin: http://channuoivietnam.com