TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 5/2022, đàn lợn và gia cầm cả nước phát triển ổn định, dịch bệnh lớn không xảy ra nhưng tình hình chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến cuối
tháng 5 tăng 5,7% so với năm 2021, đàn gia cầm tăng khoảng 1,9% so với cùng thời điểm năm trước.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2022 ước đạt 32,4 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2022 ước đạt 139 triệu USD, giảm 16,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 46 triệu USD, giảm 2,4%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 36 triệu USD, giảm 18,8%.
Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2022 đạt 294,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2022 đạt 1,3 tỷ USD, giảm 13,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 569,8 triệu USD, tăng 8,5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 518,3 triệu USD, giảm 14,1%.
Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát tốt trong thời gian qua, khiến tình hình sản xuất tại các doanh nghiệp, trang trại khởi sắc, đặc biệt là các đơn vị chủ động được nguồn con giống, liên kết tiêu thụ sản phẩm đầu ra, đảm bảo vệ sinh, an toàn sinh học. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao là một trở ngại lớn đối với ngành chăn nuôi. Trong 5 tháng đầu năm, các công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi đã có nhiều đợt điều chỉnh tăng giá. Giá thức ăn chăn nuôi tăng khiến chi phí sản xuất cũng tăng cao trong khi giá bán sản phẩm không thay đổi nhiều, điều này đặc biệt gây áp lực cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ.
Chăn nuôi trâu, bò:
Đàn trâu, bò cả nước trong tháng phát triển ổn định. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2022 giảm 1,5%; tổng số bò tăng 1,6% so với cùng thời điểm năm 2021.
Chăn nuôi lợn:
Giá thịt lợn hơi trong tháng tiếp tục duy trì ở mức ổn định, không biến động nhiều so với tháng trước, dao động trong khoảng 54.000 – 60.000 đồng/kg, thay đổi tùy từng địa phương. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao là một trở ngại lớn đối với ngành chăn nuôi và đặc biệt gây áp lực cho các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2022 tăng 5,7% so với cùng thời điểm năm 2021.
Chăn nuôi gia cầm:
Nhìn chung, đàn gia cầm cả nước phát triển ổn định trong tháng, dịch bệnh được kiểm soát tốt. Theo ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2022 tăng 1,9% so với cùng thời điểm năm 2021.
Thú y:
Theo báo cáo của Cục Thú y, tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tính đến ngày 25/05 cụ thể như sau:
Dịch Cúm gia cầm (CGC):
Từ đầu năm 2022 đến nay có 18 ổ dịch tại 10 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy 53.598 con gia cầm.
Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch tại tỉnh Tiền Giang chưa qua 21 ngày. Số gia cầm buộc tiêu hủy tại các địa phương này là 3.300 con. Các doanh nghiệp đã sản xuất, nhập khẩu, cung ứng khoảng 240 triệu liều vắc xin CGC, sản xuất trong nước chiếm hơn 50%.Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP):
Từ đầu năm 2022 đến nay có 605 ổ dịch tại 46 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy 26.302 con lợn.
Hiện nay, cả nước có 69 ổ dịch tại 23 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số lợn buộc tiêu hủy tại các địa phương này là 4.505 con; nặng nhất tại Bình Phước (tiêu hủy 1.501 con) và Hòa Bình (778 con).
Dịch bệnh Viêm da nổi cục (VDNC):
Từ đầu năm 2022 đến nay có 190 ổ dịch tại 10 tỉnh, thành phố, buộc tiêu hủy 370 con trâu, bò.
Hiện nay, cả nước có 25 ổ dịch tại 7 tỉnh chưa qua 21 ngày. Số trâu, bò buộc tiêu hủy tại các địa phương này là 89 con; nặng nhất tại Quảng Ngãi.
Các doanh nghiệp đã sản xuất, nhập khẩu, cung ứng khoảng 2 triệu liều vắc xin VDNC; trong nước đã có 02 doanh nghiệp sản xuất, đang kiểm nghiệm, khảo nghiệm theo quy định, tháng 6/2022 sẽ có 01 vắc xin được phép lưu hành.
⁕ Dịch bệnh Tai xanh, Lở mồm long móng (LMLM): đã được kiểm soát tốt. Hiện nay trên địa bàn cả nước không có dịch.
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 6/2022 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 2,1 UScent/lb xuống mức 108,875 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do doanh số xuất khẩu thịt lợn ở mức thấp.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 5/2022, giá lợn hơi tại các vùng trên cả nước tăng. Giá lợn hơi miền Bắc tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg. Cụ thể, mức giao dịch cao nhất trong khu vực vẫn được ghi nhận tại Hưng Yên và Hà Nội là 58.000 đồng/kg. Ngoại trừ tỉnh Tuyên Quang hiện đang thu mua heo hơi với giá 57.000 đồng/kg, các tỉnh thành còn lại đều giao dịch ở mức 56.000 đồng/kg.
Thị trường lợn hơi khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 54.000 – 57.000 đồng/kg. Trong đó, thương lái tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Lâm Đồng thu mua heo hơi với giá cao nhất là 57.000 đồng/kg. Thấp hơn một giá ở mức 56.000 đồng/kg gồm có các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Đắk Lắk và Bình Thuận. Các định phương còn lại ở mức 55.000 đồng/kg.
Thị trường lợn hơi miền Nam ghi nhận giá thu mua biến động tăng từ 2.000 đồng/kg tại nhiều tỉnh thành, dao động trong khoảng 55.000 – 60.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi tại Vũng Tàu và Cần Thơ đang ở mức 55.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực. Các tỉnh thành còn lại thu mua lợn hơi trong khoảng 56.000 – 60.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền trong tháng qua. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 6.000 đồng/kg lên mức 58.000 – 59.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc, miền Trung và miền Nam ổn định ở mức 28.000 – 35.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 100 đồng/quả lên mức 2.100 – 2.700 đồng/quả. Giá trứng tăng do chi phí vận chuyển tăng, giá thức ăn chăn nuôi tăng, người nuôi giảm đàn, nguồn cung giảm.

Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2022 ước đạt 32,4 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2022 ước đạt 139 triệu USD, giảm 16,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 46 triệu USD, giảm 2,4%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 36 triệu USD, giảm 18,8%.
Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
5 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc đạt 488,69 triệu USD, tăng 16,8% so với 5 tháng đầu năm 2021.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 5/2022 đạt gần 114,75 triệu USD, tăng 12,4% so với tháng 4/2022 nhưng giảm 2% so với tháng 5/2021.
Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu nhóm hàng này đạt 488,69 triệu USD, tăng 16,8% so với 5 tháng đầu năm 2021.
Trung Quốc luôn là thị trường tiêu thụ nhiều nhất các loại thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam, chiếm 42,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt gần 207,63 triệu USD, tăng mạnh 36,9% so với 5 tháng đầu năm 2021; trong đó riêng tháng 5/2022 đạt 37,67 triệu USD, giảm 16,7% so với tháng 4/2022 và giảm 31,7% so với tháng 5/2021.
Tiếp sau đó là thị trường Mỹ trong tháng 5/2022 tăng 10,6% so với tháng 4/2022 và cũng tăng 25,8% so với tháng 5/2021, đạt 13,73 triệu USD; tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu sang thị trường này tăng 28,4% so với 5 tháng đầu năm 2021; đạt 57,35 triệu USD, chiếm 11,7% trong tổng kim ngạch.
Xuất khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường Campuchia chiếm tỷ trọng 12,8%, đạt gần 62,64 triệu USD, tăng 3,3%; riêng tháng 5/2022 xuất khẩu sang thị trường này đạt 21,19 triệu USD, tăng 116,4% so với tháng 4/2022 và tăng 40,9% so với tháng 5/2021.
Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sang thị trường FTA RCEP 5 tháng đầu năm 2022 tăng mạnh 30,4% so với 5 tháng đầu năm 2021, đạt 371,83 triệu USD; Xuất khẩu sang thị trường FTA CPTTP tăng 52,2%, đạt 53,08 triệu USD.
Xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 5 tháng đầu năm 2022
(Theo số liệu công bố ngày 11/6/2022 của TCHQ). ĐVT: USD

THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
Sản phẩm chăn nuôi:
Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2022 đạt 294,5 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2022 đạt 1,3 tỷ USD, giảm 13,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 569,8 triệu USD, tăng 8,5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 518,3 triệu USD, giảm 14,1%.
Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
5 tháng đầu năm 2022 nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt trên 2,04 tỷ USD, giảm nhẹ 2,3% so với cùng kỳ năm 2021. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu về Việt Nam tháng 5/2022 tăng mạnh trở lại, tăng 53,7% so với tháng 4/2022 và cũng tăng 36% so với tháng 5/2021, đạt 605,12 triệu USD.
Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022 nhập khẩu nhóm hàng này đạt trên 2,04 tỷ USD, giảm nhẹ 2,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Achentina vẫn luôn là thị trường cung cấp thức ăn gia súc và nguyên liệu nhiều nhất cho Việt Nam, chiếm 26,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt trên 549,72 triệu USD, giảm 27,3% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó riêng tháng 5/2022 đạt 168,4 triệu USD, tăng mạnh 43,9% so với tháng 4/2022 nhưng giảm 22% so với tháng 5/2021.
Đứng thứ 2 là thị trường Brazil chiếm tỷ trọng 21,4%, đạt trên 437,42 triệu USD, tăng rất mạnh 178,4%; riêng tháng 5/2022 nhập khẩu từ thị trường này đạt 139,93 triệu USD, tăng mạnh 63,7% so với tháng 4/2022 và tăng 266,8% so với tháng 5/2021.
Tiếp đến thị trường Mỹ trong tháng 5/2022 tăng mạnh trở lại, tăng 167,8% so với tháng 4/2022 và tăng 93% so với tháng 5/2021, đạt 95,83 triệu USD; cộng chung cả 5 tháng đầu năm 2022 nhập khẩu từ thị trường này giảm 24,9% so với cùng kỳ năm 2021; đạt 278,01 triệu USD, chiếm trên 13,6% trong tổng kim ngạch.
Kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu từ khối EU 5 tháng đầu năm 2022 giảm nhẹ 2,5% so với cùng kỳ năm 2021, đạt 175,14 triệu USD; Nhập từ thị trường Đông Nam Á tăng 12,3%, đạt 157,24 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, xuất khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu sang các thị trường trong tháng 5/2022 đạt 114,75 triệu USD, tăng 12,4% so với tháng 4/2022; tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu đạt 488,69 triệu USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2021. Như vậy Việt Nam nhập siêu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu 1,55 tỷ USD, giảm 7,1% so với cùng kỳ năm 2021.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 5 tháng đầu năm 2022
(Theo số liệu công bố ngày 11/6/2022 của TCHQ). ĐVT: USD


Đậu tương:
5 tháng đầu năm 2022 cả nước nhập khẩu 915.467 tấn đậu tương, trị giá 618,78 triệu USD, giá trung bình 675,9 USD/tấn.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương các loại của cả nước trong tháng 5/2022 đạt 190.103 tấn, tương đương 139,09 triệu USD, giá trung bình 731,7 USD/tấn, giảm 5,6% về lượng, giảm 4,5% kim ngạch nhưng tăng 1,,2% về giá so với tháng 4/2022; so với tháng 5/2021 thì giảm 9,7% về lượng, nhưng tăng 16% về kim ngạch và tăng 28,,6% về giá.
Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022 cả nước nhập khẩu 915.467 tấn đậu tương, trị giá 618,78 triệu USD, giá trung bình 675,9 USD/tấn, giảm 4,5% về khối lượng, nhưng tăng 16,6% kim ngạch và tăng 22% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Brazil và Mỹ là 2 thị trường chủ yếu cung cấp đậu tương cho Việt Nam, trong đó nhập khẩu đậu tương từ Brazil 5 tháng đầu năm 2022 chiếm trên 58% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, đạt 531.351 tấn, tương đương 363,66 triệu USD, giá 684,4 USD/tấn; trong đó riêng tháng 5/2022 lượng nhập khẩu đạt 86,665 tấn, tương đương 63,48 triệu USD, giá 732,5 USD/tấn, tăng mạnh 191% về lượng, tăng 214% về kim ngạch và giá tăng 7,9% so với tháng 4/2022.
Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Mỹ đạt 332.133 tấn, tương đương 218,93 triệu USD, giá 659,2 USD/tấn, giảm mạnh 45,7% về lượng, giảm 34,8% kim ngạch nhưng giá tăng 20%; riêng tháng 5/2022 tăng mạnh 191% về lượng và tăng 214% kim ngạch nhưng giá tăng 7,9% so với tháng 4/2022, đạt 93.085 tấn, tương đương 67,53 triệu USD, giá 725,6 USD/tấn.
Ngoài ra, Việt Nam còn nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada trong 5 tháng đầu năm 2022 đạt 45.162 tấn, tương đương 31,11 triệu USD, giá 688,8 USD/tấn, tăng 29% về lượng, tăng 47,7% về kim ngạch và giá tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Nhập khẩu đậu tương từ Campuchia trong 5 tháng đầu năm 2022 đạt 5.638 tấn, tương đương 4,22 triệu USD, tăng mạnh 276,9% về lượng và tăng 328,9% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021.
Lúa mì:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong 5 tháng đầu năm 2022 cả nước nhập khẩu 1,94 triệu tấn lúa mì, trị giá gần 719,84 triệu USD, giá trung bình 371 USD/tấn, tăng 2,4% về khối lượng, tăng mạnh 39% kim ngạch và tăng 35,8% về giá so với 5 tháng đầu năm 2021.
Trong đó, riêng tháng 5/2022, lượng lúa mì nhập khẩu đạt 389.625 tấn, trị giá trên 147,48 triệu USD, giá trung bình 378,5 USD/tấn, giảm trên 21% cả về lượng và kim ngạch và cũng giảm 0,8% về giá so với tháng 4/2022; so với tháng 5/2021 thì tăng 37,5% về lượng, tăng mạnh 80% về kim ngạch và tăng 31% về giá.
Australia là thị trường chủ yếu cung cấp lúa mì cho Việt Nam, chiếm 64% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước. Trong tháng 5/2022 nhập khẩu lúa mì từ thị trường này tăng trở lại 16,7% về khối lượng, tăng 11,3% về kim ngạch so với tháng 4/2022, nhưng giá giảm 4,6%, đạt 291.098 tấn, tương đương 109,25 triệu USD, giá 375 USD/tấn; so với tháng 5/2021 tăng mạnh 87,8% về lượng, tăng 145% về kim ngạch và giá tăng 30,6%. Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2022, nhập khẩu lúa mì từ Australia đạt 1,24 triệu tấn, tương đương 462,02 triệu USD, giá 373 USD/tấn, giảm 8,4% về khối lượng nhưng tăng 24% kim ngạch và giá tăng mạnh 35,3% so với cùng kỳ năm 2021.
Ngoài thị trường chủ đạo Australia, thì Việt Nam còn nhập khẩu lúa mì từ: Brazil 322.683 tấn, tương đương 112,54 triệu USD, giá 348,8 USD/tấn, tăng mạnh cả về khối lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2021, với mức tăng tương ứng 42,4%, 108% và 46%; nhập khẩu từ Mỹ 106.283 tấn, tương đương 47,74 triệu USD, giảm 18,6% về khối lượng nhưng tăng 26,8% kim ngạch; nhập khẩu từ Ấn Độ 73.014 tấn, tương đương 27,17 triệu USD; nhập khẩu từ Canada 4.357 tấn, tương đương 2,04 triệu USD.
Ngô:
Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu tháng 5 năm 2022 đạt 900 nghìn tấn với giá trị đạt 342,7 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị nhập khẩu ngô 5 tháng đầu năm 2022 đạt 3,5 triệu tấn và 1,2 tỷ USD, giảm 22,1% về khối lượng nhưng tăng 2,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.
Nguồn nhập khẩu ngô của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2022 chủ yếu từ 3 thị trường: Achentina, Ấn Độ và Braxin, chiếm 79,6% thị phần. So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu ngô trong 4 tháng đầu năm 2022 từ Achentina tăng 61,1%, Ấn Độ (+19,7%) và Braxin (-65,3%).
Nguồn tin: http://channuoivietnam.com