TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong tháng 5/2023, chăn nuôi lợn trong tháng 5 vẫn gặp khó khăn do giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng, giá bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi bị giảm mạnh. Chăn nuôi gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Ước tính tổng số lợn của cả nước đến thời điểm cuối tháng 5 năm 2023 tăng 2,6% so với cùng thời điểm năm 2022; tổng số gia cầm tăng 1,3% so với cùng thời điểm năm 2022.
Chăn nuôi lợn nói riêng và gia súc, gia cầm nói chung hiện gặp nhiều khó khăn do: dịch bệnh trên đàn vật nuôi tiềm ẩn nguy cơ bùng phát cao; dịch COVID-19 vẫn chưa kết thúc; giá nguyên liệu đầu vào vẫn tiếp tục tăng nhưng giá xuất bán các loại sản phẩm không ổn định, lợi nhuận của người chăn nuôi đang bị giảm mạnh.
Chăn nuôi trâu, bò:
Đàn trâu, bò cả nước trong tháng phát triển ổn định. Các địa phương đang có dịch Viêm da nổi cục vẫn thực hiện nghiêm túc các biện pháp phòng chống dịch. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2023 giảm 2%; tổng số bò tăng 1,2% so với cùng thời điểm năm 2022.
Chăn nuôi lợn:
Giá thịt lợn hơi trong tháng 5 có dấu hiệu khởi sắc, xu hướng tăng. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2023 tăng 2,6% so với cùng thời điểm năm 2022.
Chăn nuôi gia cầm:
Đàn gia cầm cả nước trong tháng 5/2023 vẫn ở mức ổn định, đảm bảo nguồn cung cho thị trường, tuy nhiên việc tiêu thụ lại đang đối mặt với nhiều khó khăn. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng 5/2023 tăng 1,3% so với cùng thời điểm năm 2022.
Thú y:
Theo báo cáo của Cục Thú y tính đến ngày 23/5/2023, tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cả nước cụ thể như sau:
– Dịch Cúm gia cầm (CGC): Trong tháng 5/2023, cả nước phát sinh 03 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 02 tỉnh, thành phố Quảng Ngãi và Hà Nội; số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 3.185 con. Tính từ đầu năm đến 23/5/2023, cả nước xảy ra 10 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 07 tỉnh, thành phố: Cao Bằng, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Ngãi và Quảng Nam. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 44,44%, số gia cầm phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 57,69%. Hiện nay, cả nước có 03 ổ dịch CGC tại 02 tỉnh, thành phố: Quảng Ngãi (02 ổ dịch) và Hà Nội (01 ổ dịch) chưa qua 21 ngày.
– Dịch Lở mồm long móng (LMLM): Trong tháng 5/2023, cả nước phát sinh 01 ổ dịch LMLM tại tỉnh Gia Lai; số gia súc mắc bệnh là 15 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 19 ổ dịch tại 09 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 620 con, số gia súc tiêu hủy là 21 con. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch thuộc 02 huyện của 02 tỉnh: Thái Nguyên và Gia Lai chưa qua 21 ngày; số trâu, bò mắc bệnh là 17 con.
– Dịch Tai xanh: Trong tháng 5/2023, cả nước phát sinh 01 ổ dịch Tai xanh. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 01 ổ dịch tại tỉnh Cao bằng; số lợn mắc bệnh là 57 con, số lợn chết và tiêu hủy là 37 con. Hiện nay, cả nước có 01 ổ dịch thuộc tỉnh Cao Bằng chưa qua 21 ngày.
– Dịch Tả lợn châu Phi: Trong tháng 5/2023, cả nước phát sinh 12 ổ dịch tại 08 tỉnh. Tổng số lợn bị tiêu hủy là 223 con. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 130 ổ dịch tại 31 tỉnh; tổng số lợn bị tiêu hủy là 4.527 con. – So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 81,53%; số lợn phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 87,56%. Hiện nay, cả nước có 17 ổ dịch thuộc 12 huyện của 08 tỉnh chưa qua 21 ngày
– Bệnh viêm da nổi cục (VDNC): Trong tháng 5/2023, cả nước phát sinh 02 ổ dịch tại tỉnh Quảng Bình. Từ đầu năm đến nay, cả nước phát sinh 5 ổ dịch tại 08 tỉnh; số gia súc mắc bệnh là 315 con, số gia súc tiêu hủy là 64 con. So với cùng kỳ năm 2022, số ổ dịch giảm 72,68%; số lợn bị phải tiêu hủy tại các ổ dịch giảm 83,95%. Hiện nay, cả nước có 09 ổ dịch thuộc 04 huyện của 03 tỉnh: Thái Nguyên, Quảng Bình và Quảng Ngãi chưa qua 21 ngày.
THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI
Tại thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 6/2023 ở Chicago, Mỹ biến động giảm với mức giảm 11,025 UScent/lb xuống mức 80,675 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do nguồn cung thịt lợn dồi dào.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 5/2023, giá lợn hơi trên cả nước tăng do nhu cầu có dấu hiệu tăng lên khi mùa du lịch bắt đầu.
Tại khu vực miền Bắc, giá lợn hơi tăng 6.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 57.000- 60.000 đồng/kg. Cụ thể, tỉnh Hưng Yên thu mua lợn hơi với giá cao nhất khu vực là 60.000 đồng/kg. Lợn hơi tại Bắc Giang và Hà Nội được giao dịch ở mức 59.000 đồng/kg. Các địa hương còn lại duy trì thu mua trong khoảng 57.000 – 58.000 đồng/kg.
Giá lợn hơi thị trường khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 4.000 – 6.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 55.000 – 60.000 đồng/kg. Theo đó, hai tỉnh Nghệ An và Lâm Đồng cùng thu mua lợn hơi với giá 59.000 đồng/kg. Thương lái tại tỉnh Thanh Hóa giao dịch lợn hơi ở mức 60.000 đồng/kg – cao nhất khu vực.
Tại miền Nam, giá lợn hơi tăng 5.000 – 7.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 61.000 đồng/kg. Trong đó, lợn hơi tại hai tỉnh Đồng Tháp và Bạc Liêu được giao dịch ở mức 58.000 đồng/kg. 60.000 đồng/kg là giá lợn hơi được ghi nhận tại hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh – ngang với Đồng Nai, Vũng Tàu và Hậu Giang. Lợn hơi tại Long An được thu mua với giá 61.000 đồng/kg – cao nhất khu vực. Các địa phương còn lại thu mua trong khoảng 56.000 – 59.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động tăng tại các vùng miền trong tháng 5/2023. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung tăng 16.000 đồng/kg lên mức 48.000 đồng/kg. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Nam tăng 5.000 đồng/kg lên mức 37.000 -38.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Nam và miền Trung tăng 4.000 – 5.000 đồng/kg lên mức 24.000 đồng/kg.
Giá trứng gà miền Bắc giảm 400 đồng/quả xuống mức 1.600 – 1.700 đồng/quả. Giá trứng gà miền Trung tăng 100 – 200 đồng/quả lên mức 1.800 – 2.000 đồng/quả. Giá trứng gà miền Đông Nam Bộ và miền Tây Nam Bộ giảm 100 đồng/quả xuống mức 1.700 – 1.900 đồng/quả.

Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi trong tháng 5 năm 2023 ước đạt 44 triệu USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2023 đạt 190 triệu USD, tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 52 triệu USD, tăng 10,9%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 58 triệu USD, tăng 59,1%.
Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc của cả nước trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 426,3 triệu USD, giảm 12,8% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Riêng tháng 5/2023 đạt 99,36 triệu USD, tăng 1,4% so với tháng 4/2023 nhưng giảm 13,4% so với tháng 5/2022.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Trung Quốc – thị trường lớn nhất, tháng 5/2023 tăng 10,1% so với tháng 4/2023 và tăng 28,6% so với tháng 5/2022, đạt 48,44 triệu USD, tính chung kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này 5 tháng đầu năm 2023 đạt 192,11 triệu USD, giảm 7,5% so với 5 tháng đầu năm 2022, chiếm 45% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Campuchia – thị trường lớn thứ 2 trong 5 tháng đầu năm 2023 tăng 14,2% so với cùng kỳ, đạt 71,53 triệu USD, chiếm 16,8% trong tổng kim ngạch; riêng tháng 5/2023 tăng 11% so với tháng 4/2023 nhưng giảm 23,9% so với tháng 5/2022, đạt 16,13 triệu USD.
Thị trường Malaysia xếp thứ 3 về kim ngạch, đạt 42,85 triệu USD, tăng mạnh 33,9% so với cùng kỳ; riêng trong tháng 5/2023 giảm 7% so với tháng 4/2023 nhưng tăng 15,7% so với tháng 5/2022, đạt 9,59 triệu USD.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường FTA-RCEP trong 5 tháng đầu năm 2023 giảm 5% so với cùng kỳ, đạt 353,38 triệu USD, chiếm 82,9% trong tổng kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường CPTTP tăng 0,2% so với cùng kỳ, đạt 53,21 triệu USD, chiếm 12,5% trong tổng kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á tăng 4,8% so với cùng kỳ, đạt 140,98 triệu USD, chiếm 33%.
Xuất khẩu thức ăn gia súc 5 tháng đầu năm 2023
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 15/6/2023 của TCHQ). ĐVT: USD

THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
Nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 5 năm 2023 ước đạt 355 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 5 tháng đầu năm 2023 đạt 1,41 tỷ USD, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 571 triệu USD, tăng 0,5%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 511 triệu USD, giảm 3,8%.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu:
5 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt trên 1,93 tỷ USD, giảm 5,4% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu nhóm hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu về Việt Nam tháng 5/2023 tăng 6,8% so với tháng 4/2023 nhưng giảm 34,7% so với tháng 5/2022, đạt 395,01 triệu USD. Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu nhóm hàng này đạt trên 1,93 tỷ USD, giảm 5,4% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu nhiều nhất từ thị trường Achentina, chiếm 24,8% trong tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước, đạt trên 478,96 triệu USD, giảm 12,9% so với 5 tháng đầu năm 2022; trong đó riêng tháng 5/2023 đạt 82,83 triệu USD, tăng mạnh 118,4% so với tháng 4/2023 nhưng giảm 50,8% so với tháng 5/2022.
Đứng thứ 2 là thị trường Ấn Độ chiếm tỷ trọng 17,4%, đạt 336,6 triệu USD, tăng mạnh 210,8% so với cùng kỳ năm 2022; riêng tháng 5/2023 nhập khẩu từ thị trường này đạt trên 55,34 triệu USD, giảm 30,4% so với tháng 4/2023 nhưng tăng mạnh 111,4% so với tháng 5/2022.
Tiếp đến thị trường Mỹ trong tháng 5/2023 nhập khẩu giảm 25% so với tháng 4/2023 và giảm 50,9% so với tháng 5/2022, đạt gần 47,06 triệu USD; cộng chung cả 5 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu từ thị trường này tăng nhẹ 1% so với 5 tháng đầu năm 2022; đạt 280,9 triệu USD, chiếm 14,5% trong tổng kim ngạch.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu từ thị trường Đông Nam Á trong 5 tháng đầu năm 2023 giảm 18,8% so với 5 tháng đầu năm 2022, đạt 127,67 triệu USD.
Nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 5 tháng đầu năm 2023
(Theo số liệu công bố ngày 15/6/2023 của TCHQ)


Nhập khẩu đậu tương:
5 tháng đầu năm 2023 cả nước nhập khẩu 877.686 tấn đậu tương, trị giá gần 587,98 triệu USD, giá trung bình 669,9 USD/tấn.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 5/2023 đạt 140.895 tấn, tương đương 86,39 triệu USD, giá trung bình 613 USD/tấn, giảm 40,8% về lượng và giảm 44,3% kim ngạch so với tháng 4/2023, giá giảm 5,8%; so với tháng 5/2022 giảm 25,9 % về lượng, giảm 37,9% về kim ngạch và giảm 16,2% về giá.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2023 cả nước nhập khẩu 877.686 tấn đậu tương, trị giá gần 587,98 triệu USD, giá trung bình 669,9 USD/tấn, giảm 4% về lượng, giảm 5% kim ngạch và giảm 0,9% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022.
Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam từ thị trường Mỹ nhiều nhất, trong tháng 5/2023 giảm 4,8% về lượng và giảm 8,7% về kim ngạch so với tháng 4/2023, giá giảm 4,1%, đạt 55.684 tấn, tương đương 35,81 triệu USD, giá 643 USD/tấn; Tính chung, 5 tháng đầu năm 2023 nhập khẩu đậu tương từ thị trường này đạt 444.031 tấn, tương đương 305,46 triệu USD, chiếm trên 50,6% trong tổng lượng và chiếm 52% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, tăng mạnh 33,7% về lượng, tăng 39,5% về kim ngạch, giá tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước .
Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Brazil – thị trường lớn thứ 2 trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 345.989 tấn, tương đương 220,39 triệu USD, giá 637 USD/tấn, chiếm trên 39,4% trong tổng lượng và chiếm 37,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm mạnh 34,9% về lượng, giảm 39,4% về kim ngạch và giá giảm 6,9% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada 5 tháng đầu năm 2023 đạt 51.938 tấn, tương đương 38,88 triệu USD, giá 748,6 USD/tấn, tăng 15% về lượng, tăng 25% về kim ngạch và giá tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 320 tấn, tương đương 251.300 USD, giá 785,3 USD/tấn, giảm 94% cả về lượng và kim ngạch nhưng tăng 5% về giá.
Nhập khẩu đậu tương 5 tháng đầu năm 2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 15/6/2023 của TCHQ)

Nhập khẩu lúa mì:
5 tháng đầu năm 2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,03 triệu tấn, tương đương trên 752,47 triệu USD, tăng 4,8% về khối lượng, tăng 4,5% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5/2023 cả nước nhập khẩu 378.811 tấn lúa mì, tương đương 148,23 triệu USD, giá trung bình 391,3 USD/tấn, giảm gần 14,1% về lượng và giảm 7,1% kim ngạch so với tháng 4/2023, nhưng giá tăng 8,2%. So với tháng 5/2022 thì giảm 2,8% về lượng, nhưng tăng 0,5% kim ngạch và tăng 3,4% giá.
Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt trên 2,03 triệu tấn, tương đương trên 752,47 triệu USD, tăng 4,8% về khối lượng, tăng 4,5% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022, giá trung bình đạt 370 USD/tấn, giảm nhẹ 0,3%.
Trong tháng 5/2023 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Australia giảm 10,1% về lượng, nhưng tăng 0,8% kim ngạch và tăng 12,2% về giá so với tháng 4/2023, đạt 273.193 tấn, tương đương 107,11 triệu USD, giá 392 USD/tấn; so với tháng 5/2022 thì giảm 6,2% về lượng giảm 2% kim ngạch nhưng tăng 4,5% về giá. Tính chung cả 5 tháng đầu năm 2023, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Australia, chiếm gần 68,4% trong tổng lượng và chiếm 67% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước, đạt trên 1,39 triệu tấn, tương đương 504,17 triệu USD, giá trung bình 362,3 USD/tấn, tăng 12,4% về lượng, tăng 9,1% về kim ngạch nhưng giảm 2,9% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022.
Bên cạnh thị trường chủ đạo Australia là thị trường Brazil chiếm gần 13% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 261.611 tấn, tương đương 95,82 triệu USD, giá trung bình 366,3 USD/tấn, giảm 18,9% về lượng, giảm 14,9% kim ngạch nhưng tăng 5% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022.
Tiếp đến thị trường Canada đạt 155.971 tấn, tương đương 64,75 triệu USD, giá 415,2 USD/tấn, tăng rất mạnh 3.480% về lượng, tăng 3.082% kim ngạch nhưng giảm 11% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022, chiếm 7,7% trong tổng lượng và chiếm 8,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước.
Nhập khẩu lúa mì từ thị trường Mỹ đạt 146.676 tấn, tương đương 60,91 triệu USD, tăng 38% về khối lượng và tăng 27,6% về kim ngạch so với 5 tháng đầu năm 2022.
Nhập khẩu lúa mì 5 tháng đầu năm 2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 15/6/2023 của TCHQ)

Nhập khẩu ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt gần 3,21 triệu tấn, trị giá trên 1,08 tỷ USD, giá trung bình 336,7 USD/tấn, giảm 10,8% về lượng, giảm 12,8% kim ngạch và tăng 2,1% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022.
Trong đó, riêng tháng 5/2023 đạt 398.603 tấn, tương đương 131,31 triệu USD, giá trung bình 329,4 USD/tấn, giảm 35,9% về lượng và giảm 38% kim ngạch so với tháng 4/2023, giá giảm 3,4%; so với tháng 5/2022 cũng giảm mạnh 61,1% về lượng, giảm 65,9% về kim ngạch và giảm 12,4% về giá.
Brazil là thị trường chủ đạo cung cấp ngô cho Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2023, chiếm trên 43% trong tổng lượng và chiếm 42,6% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 1,38 triệu tấn, tương đương gần 459,87 triệu USD, giá 333,4 USD/tấn, tăng mạnh 325,7% về lượng, tăng 341% kim ngạch và tăng 3,6% về giá so với 5 tháng đầu năm 2022; riêng tháng 5/2023 đạt 26.692 tấn, tương đương 7,8 triệu USD, giá 292 USD/tấn, giảm mạnh 80,8% về lượng và giảm 83,6% kim ngạch so với tháng 4/2023, và giá giảm 14%.
Thị trường lớn thứ 2 là Achentina, trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 907.017 tấn, tương đương 303,81 triệu USD, giá 335 USD/tấn, chiếm trên 28% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm 54% về lượng, giảm 55,7% về kim ngạch và giá giảm 3,4% so với 5 tháng đầu năm 2022.
Tiếp đến thị trường Ấn Độ 5 tháng đầu năm 2023 đạt 697.609 tấn, tương đương 227,87 triệu USD, giá 326,6 USD/tấn, chiếm trên 21% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, tăng 11,4% về lượng, tăng 11,6% về kim ngạch, giá tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô 5 tháng đầu năm 2023
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 15/6/2023 của TCHQ)

Nguồn tin: http://channuoivietnam.com