TÌNH HÌNH CHUNG
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm nhìn chung diễn ra trong điều kiện thuận lợi do dịch bệnh covid ở trong nước đã được kiểm soát và nhu cầu tiêu dùng hàng nông sản trên thế giới tăng cao. Giá cả các nguyên, nhiên liệu đầu vào chủ yếu phục vụ sản xuất nông lâm thủy sản (như xăng dầu,phân bón, thức ăn chăn nuôi…) tăng cao đã ảnh hưởng tới sản xuất nông lâm thủy sản.
Trong 6 tháng, đàn lợn và gia cầm cả nước phát triển ổn định, dịch bệnh lớn không xảy ra nhưng tình hình chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục tăng. Ước tính tổng đàn lợn của cả nước tính đến cuối tháng 6 tăng 3,8%, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 2116,3 nghìn tấn, tăng 5,7%; đàn gia cầm tăng khoảng 1,2% so với cùng thời điểm năm trước, sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 980,7 nghìn tấn, tăng 5,2%.
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 ước đạt 34,8 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 176 triệu USD, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 56,4 triệu USD, giảm 1,5%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,5 triệu USD, giảm 13,5%.
Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 đạt 301,6 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 đạt 1,6 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 718,4 triệu USD, tăng 13%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 641,3 triệu USD, giảm 14,7%.
Chăn nuôi trâu, bò: Chăn nuôi trâu, bò trên cả nước trong 6 tháng năm 2022 bị ảnh hưởng từ diễn biến thời tiết khắc nghiệt đến dịch bệnh phức tạp. Theo số liệu ước tính của Tổng cục Thống kê (TCTK), tổng số trâu của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 giảm 1,4%, tổng số bò tăng 2,2% so với cùng thời điểm năm 2021.
Chăn nuôi lợn: Ngành chăn nuôi đang đứng trước nhiều khó khăn khi giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng. Nguyên nhân của sự tăng giá này chủ yếu đến từ việc giá nhập khẩu của các nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng cao. Chi phí đầu vào tăng nhưng giá bán sản phẩm đầu ra lại giảm, điều này đã gây áp lực lớn cho người chăn nuôi. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số lợn của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 tăng 3,8% so với cùng thời điểm năm 2021.
Chăn nuôi gia cầm: Đàn gia cầm 6 tháng đầu năm 2022 tiếp tục tăng do khu vực hộ và doanh nghiệp đều phát triển ổn định. Theo số liệu ước tính của TCTK, tổng số gia cầm của cả nước tính đến thời điểm cuối tháng Sáu năm 2022 tăng 1,2% so với cùng thời điểm năm 2021.
Theo số liệu tính toán của TCTK, sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại 6 tháng đầu năm 2022 so với cùng kỳ 2021 cụ thể như sau: Sản lượng thịt trâu ước đạt 62,0 nghìn tấn, tăng 1,8% (trong đó quý II ước đạt 28,2 nghìn tấn, tăng 2,7%); sản lượng thịt bò ước đạt 241,2 nghìn tấn, tăng 4,4% (quý II ước đạt 112,3 nghìn tấn, tăng 5,6%); sản lượng sữa bò tươi 6 tháng ước đạt 617,8 triệu lít, tăng 10,1% (quý II ước đạt 313,3 triệu lít, tăng 9,7%), sản lượng thịt lợn ước đạt 2116,3 nghìn tấn, tăng 5,7% (quý II ước đạt 1075,3 nghìn tấn, tăng 7,1%), sản lượng thịt gia cầm ước đạt 980,7 nghìn tấn, tăng 5,2% (quý II ước đạt 473,4 nghìn tấn, tăng 5,1%); sản lượng trứng gia cầm ước đạt 8,8 tỷ quả, tăng 4,8% (quý II ước đạt 4,2 tỷ quả, tăng 5,1%).
Thú y: Theo báo cáo của Cục Thú y, tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tính đến ngày 22/6 cụ thể như sau:
– Dịch cúm gia cầm: Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 21 ổ dịch CGC (01 ổ dịch CGC A/H5N6 và 20 ổ dịch CGC A/H5N1) tại 19 huyện của 12 tỉnh, thành phố. Tổng số gia cầm mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 58.480 con. Hiện nay, cả nước có 02 ổ dịch CGC A/H5N1 tại 02 tỉnh Quảng Trị và Kon Tum chưa qua 21 ngày. So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 4,1 lần, số tỉnh có dịch giảm 2,2 lần và số gia cầm tiêu hủy giảm 6,2 lần.
– Dịch tả lợn châu Phi: Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 738 ổ dịch DTLCP tại 216 huyện của 47 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn mắc bệnh, chết và tiêu hủy là 31.477 con. Hiện nay, cả nước có 119 ổ dịch tại 58 huyện của 24 tỉnh, thành phố chưa qua 21 ngày; số lợn mắc bệnh là 7.903 con; tổng số lợn chết và tiêu hủy là 8.017 con. So với cùng kỳ năm 2021, xã có dịch DTLCP giảm 1,6 lần và số lợn bị tiêu hủy giảm 3,23 lần.
– Dịch lở mồm long móng (LMLM): Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 03 ổ dịch LMLM tại 03 huyện của 03 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 39 con. Hiện nay, cả nước không có dịch bệnh LMLM. So với cùng kỳ năm 2021, số xã có dịch giảm gần 27 lần, số gia súc mắc bệnh giảm gần 86 lần.
- Dịch lợn tai xanh: Từ đầu năm 2022 đến nay, không có báo cáo ổ dịch Tai xanh mới phát sinh tại các địa phương.
– Dịch Viêm da nổi cục: Từ đầu năm đến nay, xảy ra 200 ổ dịch VDNC của 43 huyện của 12 tỉnh, thành phố. Tổng số gia súc mắc bệnh là 2.095 con, tổng số gia súc tiêu hủy là 386 con. Hiện nay, cả nước có 11 ổ dịch tại 05 tỉnh Cao Bằng, Quảng Ngãi, Đắk Nông, Khánh Hòa và Bến Tre chưa qua 21 ngày; số gia súc mắc bệnh là 70 con; tổng gia súc chết và tiêu hủy là 11 con. So với cùng kỳ năm 2021, số ổ dịch giảm 14 lần, số gia súc mắc bệnh giảm 64 lần và số gia súc tiêu hủy giảm 52 lần.
Thị trường chăn nuôi:
Trên thị trường thế giới, giá lợn nạc giao tháng 6/2022 ở Chicago, Mỹ biến động giảm trong tháng qua với mức giảm 2,1 UScent/lb xuống mức 108,875 UScent/lb. Giá thịt lợn giảm do doanh số xuất khẩu thịt lợn ở mức thấp.
Tại thị trường trong nước, trong tháng 5/2022, giá lợn hơi tại các vùng trên cả nước tăng. Giá lợn hơi miền Bắc tăng 1.000 – 2.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 56.000 – 58.000 đồng/kg. Cụ thể, mức giao dịch cao nhất trong khu vực vẫn được ghi nhận tại Hưng Yên và Hà Nội là 58.000 đồng/kg. Ngoại trừ tỉnh Tuyên Quang hiện đang thu mua heo hơi với giá 57.000 đồng/kg, các tỉnh thành còn lại đều giao dịch ở mức 56.000 đồng/kg.
Thị trường lợn hơi khu vực miền Trung, Tây Nguyên tăng 1.000 đồng/kg, dao động trong khoảng 54.000 – 57.000 đồng/kg. Trong đó, thương lái tại các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Lâm Đồng thu mua heo hơi với giá cao nhất là 57.000 đồng/kg. Thấp hơn một giá ở mức 56.000 đồng/kg gồm có các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Khánh Hòa, Đắk Lắk và Bình Thuận. Các định phương còn lại ở mức 55.000 đồng/kg.
Thị trường lợn hơi miền Nam ghi nhận giá thu mua biến động tăng từ 2.000 đồng/kg tại nhiều tỉnh thành, dao động trong khoảng 55.000 – 60.000 đồng/kg. Trong đó, giá lợn hơi tại Vũng Tàu và Cần Thơ đang ở mức 55.000 đồng/kg, thấp nhất khu vực. Các tỉnh thành còn lại thu mua lợn hơi trong khoảng 56.000 – 60.000 đồng/kg.
Giá thu mua gà tại trại biến động trái chiều tại các vùng miền trong tháng qua. Giá gà thịt lông màu ngắn ngày miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 6.000 đồng/kg lên mức 58.000 – 59.000 đồng/kg. Giá gà công nghiệp miền Bắc, miền Trung và miền Nam ổn định ở mức 28.000 – 35.000 đồng/kg. Giá trứng gà miền Bắc, miền Trung và miền Nam tăng 100 đồng/quả lên mức 2.100 – 2.700 đồng/quả. Giá trứng tăng do chi phí vận chuyển tăng, giá thức ăn chăn nuôi tăng, người nuôi giảm đàn, nguồn cung giảm.

THỊ TRƯỜNG CHĂN NUÔI
Biểu đồ. Diễn biến giá lợn, gà và vịt hơi (giá tại trại) tại các tỉnh phía Nam
Xem chi tiết tại: http://channuoivietnam.com/bieu-2/
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi:
Giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 ước đạt 34,8 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 176 triệu USD, giảm 15,9% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa đạt 56,4 triệu USD, giảm 1,5%; thịt và phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật đạt 45,5 triệu USD, giảm 13,5%.
Xuất khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu thức ăn gia súc của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt 602,13 triệu USD, tăng 13,7% so với 6 tháng đầu năm 2021; trong đó riêng tháng 6/2022 đạt 113,9 triệu USD, giảm nhẹ 0,7% so với tháng 5/2022 nhưng tăng 7,8% so với tháng 6/2021.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Trung Quốc – thị ttường lớn nhất, tháng 6/2022 tăng 7,7% so với tháng 5/2022 và tăng 10,8% so với tháng 6/2021, đạt 40,56 triệu USD, tính chung kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này 6 tháng năm 2022 đạt 248,19 triệu USD, tăng mạnh 31,8% so với cùng kỳ năm 2021, chiếm 41,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước.
Xuất khẩu thức ăn gia súc sang thị trường Campuchia – thị trường lớn thứ 2 tăng 4,6% so với cùng kỳ, đạt 78,28 triệu USD, chiếm 13% trong tổng kim ngạch; riêng tháng 6/2022 giảm 24% so với tháng 5/2022 nhưng tăng 13,5% so với tháng 6/2021, đạt 16,08 triệu USD.
Thị trường Mỹ xếp thứ 3 về kim ngạch, đạt 72,91 triệu USD, tăng 29,2% so với cùng kỳ; riêng trong tháng 6/2022 tăng 13,3% so với tháng 5/2022 và tăng 32,3% so với tháng 6/2021, đạt 15,55 triệu USD.
Đáng chú ý là thức ăn gia súc xuất khẩu sang thị trường Philippines mặc dù chỉ chiếm 3,9% trong tổng kim ngạch, đạt 23,2 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ thì tăng rất mạnh 69,5%.
Xuất khẩu thức ăn gia súc 6 tháng năm 2022
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 11/7/2022 của TCHQ). ĐVT: USD

THỊ TRƯỜNG NHẬP KHẨU
Sản phẩm chăn nuôi:
Ước giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi tháng 6 năm 2022 đạt 301,6 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2022 đạt 1,6 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu sữa và các sản phẩm sữa ước đạt 718,4 triệu USD, tăng 13%; giá trị nhập khẩu của thịt, phụ phẩm dạng thịt và phụ phẩm ăn được sau giết mổ của động vật ước đạt 641,3 triệu USD, giảm 14,7%.
Thức ăn gia súc và nguyên liệu:
Ước giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu tháng 6 năm 2022 đạt 600 triệu USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu 6 tháng đầu năm 2022 đạt 2,6 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2021.
Trong 5 tháng đầu năm 2022, Việt Nam nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu chủ yếu từ các thị trường: Achentina (chiếm 26,9% thị phần), Braxin (21,4%) và Hoa Kỳ (13,6%). So với cùng kỳ năm 2021, giá trị nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu của Việt Nam từ Achentina giảm 27,5%, Braxin (+178,4%) và Hoa Kỳ (-25%).
Đậu tương:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu đậu tương trong tháng 6/2022 đạt 115.810 tấn, tương đương 85,5 triệu USD, giá trung bình 738,3 USD/tấn, giảm 39% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2022; nhưng giá tăng nhẹ 0,9%; so với tháng 6/2021 thì giảm 12% về lượng, nhưng tăng 7,8% về kim ngạch và tăng 22,5% về giá.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2022 cả nước nhập khẩu 1,03 triệu tấn đậu tương, trị giá 704,19 triệu USD, giá trung bình 682,9 USD/tấn, giảm 5,4% về lượng nhưng tăng 15,5% kim ngạch và tăng 22% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Đậu tương nhập khẩu về Việt Nam từ thị trường Brazil nhiều nhất, trong tháng 6/2022 tiếp tục giảm gần 14% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2022 và giá giảm 0,5%, đạt 75.005 tấn, tương đương 54,67 triệu USD, giá 728,9 USD/tấn; Tính chung, 6 tháng đầu năm nhập khẩu từ thị trường này đạt 606.356 tấn, tương đương 418,34 triệu USD, chiếm 59% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước.
Nhập khẩu đậu tương từ thị trường Mỹ – thị trường lớn thứ 2 trong tháng 6/2022 sụt giảm mạnh 65% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2022 nhưng giá tăng nhẹ 2,2%, đạt 32.188 tấn, tương đương 23,87 triệu USD, giá trung bình 741,7 USD/tấn. Tính chung cả 6 tháng đầu năm, nhập khẩu từ thị trường này đạt 364.347 tấn, tương đương 242,83 triệu USD, giá 666,5 USD/tấn, chiếm 35% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu đậu tương của cả nước, giảm mạnh 42,3% về lượng, giảm 30,4% về kim ngạch nhưng giá tăng 20,7% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, nhập khẩu đậu tương từ thị trường Canada 6 tháng đầu năm đạt 52.946 tấn, tương đương 37,39 triệu USD, giá 706,2 USD/tấn, tăng 19,9% về lượng, tăng 37,6% về kim ngạch và giá tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Nhập khẩu từ thị trường Campuchia đạt 6.148 tấn, tương đương 4,62 triệu USD, giá 752 USD/tấn, tăng mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá, với mức tăng tương ứng 186,5%, 229% và 14,9%.
Nhập khẩu đậu tương 6 tháng đầu năm 2022
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 11/7/2022 của TCHQ)

Lúa mì:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2022 cả nước nhập khẩu 307.350 tấn lúa mì, tương đương 114,45 triệu USD, giá trung bình 372,4 USD/tấn, giảm 21% về lượng, giảm 22,4% về kim ngạch và giảm 1,6% về giá so với tháng 5/2022. So với tháng 6/2021 cũng giảm 26,3% về lượng, giảm 8,4% kim ngạch nhưng tăng 24,2% về giá.
Tính chung cả 6 tháng năm 2022 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt 2,25 triệu tấn, tương đương trên 834,3 triệu USD, giảm 2% về khối lượng, nhưng tăng 30,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2021, giá trung bình đạt 371,2 USD/tấn, tăng 33,5%. Trong tháng 6/2022 nhập khẩu lúa mì từ thị trường chủ đạo Australia giảm gần 8% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 5/2022, đạt 269.623 tấn, tương đương 100,8 triệu USD; so với tháng 6/2021 cũng giảm 26,8% về lượng, giảm 8,2% kim ngạch. Tính chung cả 6 tháng, nhập khẩu lúa mì từ thị trường Australia, chiếm trên 67% trong tổng lượng và tổng kim ngạch lúa mì nhập khẩu của cả nước, đạt 1,51 triệu tấn, tương đương 562,82 triệu USD, giá trung bình 373,4 USD/tấn, giảm 12,3% về lượng, nhưng tăng 16,7% về kim ngạch và tăng 33% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Tiếp sau đó là thị trường Brazil chiếm trên 14% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 322.760 tấn, tương đương 112,55 triệu USD, giá trung bình 348,7 USD/tấn, tăng mạnh 40,6% về lượng, tăng 104,6% về kim ngạch và tăng 45,5% về giá so với cùng kỳ năm 2021.
Thị trường Mỹ đứng thứ 3 đạt 106.673 tấn, tương đương 47,92 triệu USD, giá 449 USD/tấn, giảm 29,5% về lượng nhưng tăng 6,4% kim ngạch và tăng 50,9% về giá so với cùng kỳ, chiếm 4,8% trong tổng lượng và chiếm 5,7% trong tổng kim ngạch nhập khẩu lúa mì của cả nước.
Nhập khẩu lúa mì 6 tháng năm 2022
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 11/7/2022 của TCHQ)

Ngô:
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô các loại trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt gần 4,55 triệu tấn, trị giá trên 1,61 tỷ USD, giá trung bình 353 USD/tấn, giảm 14,4% về lượng, nhưng tăng 12,7% kim ngạch và tăng 31,6% về giá so với 6 tháng năm 2021.
Trong đó, riêng tháng 6/2022 đạt trên 1 triệu tấn, tương đương 384,13 triệu USD, giá trung bình 383,8 USD/tấn, giảm 2,4% về lượng, giảm 0,4% kim ngạch nhưng giá tăng 2,1% so với tháng 5/2022; so với tháng 6/2021 thì tăng 16,4% về lượng, tăng 47,7% về kim ngạch và tăng 26,9% về giá.
Achentina là thị trường cung cấp ngô nhiều nhất cho Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2022, chiếm 61,4% trong tổng lượng và chiếm 62,4% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, đạt 2,79 triệu tấn, tương đương trên 1 tỷ USD, tăng mạnh cả về lượng, kim ngạch và giá so với cùng kỳ năm 2021, với mức tăng tương ứng 26,8%, 57,6% và 24,4%; riêng tháng 6/2022 đạt 863.930 tấn, tương đương 331,88 triệu USD, giá 384,2 USD/tấn, tăng 17,8% về lượng và tăng 23,6% kim ngạch so với tháng 5/2022, giá tăng 4,9%; so với tháng 6/2021 thì tăng mạnh 65% về lượng, tăng 105,4% về kim ngạch và giá tăng 24,4%.
Nhập khẩu ngô từ thị trường Ấn Độ 6 tháng đầu năm 2022 đạt 632.095 tấn, tương đương 206,45 triệu USD, giá 326,6 USD/tấn, chiếm 13,9% trong tổng lượng và chiếm 12,9% trong tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm 22,7% về lượng, giảm 8% về kim ngạch nhưng giá tăng 19% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu ngô từ thị trường Brazil 6 tháng đầu năm 2022 đạt 346.117 tấn, tương đương 112,95 triệu USD, giá 326,3 USD/tấn, chiếm trên 7% trong tổng lượng và tổng kim ngạch nhập khẩu ngô của cả nước, giảm mạnh 74,6% về lượng, giảm 62,4% về kim ngạch nhưng giá tăng mạnh 48% so với 6 tháng năm 2021.
Nhập khẩu ngô 6 tháng đầu năm 2022
(Tính toán theo số liệu công bố ngày 11/7/2022 của TCHQ)

Nguồn tin: http://channuoivietnam.com